Soạn bài Giá trị của tập truyện và kí - Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo

Đọc văn bản

Giá trị của tập Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc)

Phạm Huy Thông


[…]

     Sáu bài cô đọng mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. Khắp năm châu mà trước hết là Việt Nam. Từ những tin thời sự nóng hổi như việc bổ nhiệm tên toàn quyền Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bo-ra-xin (Brazil), đến giấc mơ hình dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống xâm lăng của dân tộc ta, đến viễn cảnh thế giới thoát ách thực dân đế quốc tưng bừng hạnh phúc ở ngưỡng của thế kỉ thứ XXI. Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát tố cáo, sắc bén, những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ quyệt của thực dân, đây là một thứ ngụ ngôn cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương vị đồng quê đất Việt. […]

     Loại truyện và kí này vui, nhẹ, thoải mái, thoạt đọc như mạn đàm, phóng bút, mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao cả và sâu sắc, lại được viết dưới một hình thức văn nghệ dễ tiếp thụ, thấm thía, có một ý nghĩa giáo dục to lớn.

     Hồ Chủ tịch đả kích một cách chua cay – do đó rất mạnh mẽ – vào kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thuộc địa nói chung, là đế quốc thực dân và bè lũ tay sai phong kiến. Người vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thực dân, hun khói và chặt đầu người không gớm tay', lại mè nheo của đút, đến con gà, quả trứng cũng không từ, nhưng luôn mồm giả nhân giả nghĩa nói những câu chuyện “khai hoá và công lí”. Người cũng giáng một đòn đích đáng vào bọn vua quan phong kiến quỳ gối, ôm chân đế quốc, bám lấy lợi lộc đê tiện trong cuộc sống ươn hèn, bị “trời đoạn tuyệt, tổ tiên từ bỏ, nhân dân ruồng rẫy”.

     Mặt khác, Người biểu dương tinh thần yêu nước của nhân dân ta, tự hào có một quốc sử “treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Nước ta xưa có nhiều anh hùng, nhưng nước ta không phải chỉ có những anh hùng xưa... Chính Người, bôn ba tìm con đường cách mạng, nhờ ánh sáng của Cách mạng tháng Mười thấy được phương hướng tiến lên giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Chính Người là anh hùng dân tộc vì những Người không nói đến mình, mà cảm phục Phan Bội Châu, “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”, và cảm động nhận thấy ở thái độ của nhân dân ta tôn sùng cụ Phan một thước đo chính xác, đo phẩm chất của dân tộc ta rất cao quý, kể cả khi đang bị đày đoạ trong vòng nô lệ. [...]

     Với nội dung tư tưởng và tình cảm phong phú, cốt truyện, khung cảnh và hình thức văn nghệ muôn hình sắc, truyện và kí của Hồ Chủ tịch được ưa thích vì đa dạng. Đa dạng như cuộc sống. Thế nhưng xét toàn bộ số bài này, hơn nữa xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng. Mà đây cũng lại là một lí do khác để người đọc ưa thích sáng tác của Người! Nhất quán và phong phú bổ sung cho nhau. Cũng như tư tưởng và nghệ thuật quyện làm một, chứ không phải chỉ điểm tổ nhau, để trở nên những tác phẩm tuyệt vời này.

     Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng. Trí tưởng tượng của người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lạ, huyễn hoặc, mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực. Một lần nữa cần trở lại hình ảnh điển hình của cụ Ki-men-gô châu Phi. Người làm cách mạng, nắm được quy luật phát triển của xã hội [...]. Nhưng còn cần tài ba của nghệ sĩ mới dựng nên được, giữa rừng cờ đỏ, sống, thật và sắc sảo nhường ấy, Ki-men-gô, lãnh tụ cách mạng, “đáng tôn kính và được tôn kính”, “một trong số hiếm những người đã chịu gian khổ lớn để gieo hạt và được hưởng hạnh phúc lớn gặt vụ mùa thắng lợi”. Khi phác hoạ một chân dung vĩ đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi hư cấu một cặp tình nhân thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy cớ tạo nên những cảnh huống đả được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng ghét, là (tác giả) đều phải mơ cách mạng ngày đêm, ước mong cách mạng mãnh liệt, tưởng tượng không ngừng về cách mạng.

     Để giúp cho tài nghệ được phát huy theo hướng sáng tác phóng khoáng đó, Người sẵn có một vốn kiến thức cổ kim, đông tây uyên bác. Không phải chỉ kiến thức học vấn cao xa, mà cả những hiểu biết chi li hằng ngày. Truyện và kí vận dụng những khái niệm “dương cửu” và “mệnh trời” trong triết lí phương Đông cổ nhưng cũng nói đến chế độ đăng bạn của công nhân hàng hải trong giao lưu quốc tế, những mánh khoé câu khách bằng tin vặt giật gân của báo chí trong xã hội tư bản, những thói ăn chơi ở các hộp đêm Pa-ri hoa lệ,...

     Hồ Chủ tịch dùng tiếng Pháp, gọi là bất đắc dĩ cũng được, nhưng thật ra phải nói là cần thiết. Để thấu những đối tượng cụ thể, để đạt những mục tiêu thiết thục. Dùng tiếng Pháp, Người nắm ngôn ngữ Pháp vững vàng, sử dụng ngôn ngữ Pháp tế nhị. Hơn nữa, Người thâm nhập lối tư duy Pháp. Bút pháp sở trường của Người ở đây là châm biếm. Trong chừng mực nào nụ cười của Người xuất phát từ phong cách trào lộng của Người, trong chừng mực nào từ tính tình hài hước của người Pháp?

(Trích Mấy lời nói đầu, in trong Truyện và kí (Nguyễn Ái Quốc), Phạm Huy Thông dịch và giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1974, tr. 9 – 14)

Sau khi đọc

Câu 1: Xác định bố cục, nội dung và mối liên hệ giữa các phần trong văn bản.

Trả lời:

- Bố cục:

+ Phần 1: Giá trị của tập Truyện và ký (Nguyễn Ái Quốc) nhìn từ nội dung, tư tưởng

+ Phần 2: Giá trị của tập Truyện và ký họa (Nguyễn Ái Quốc) nhìn từ phong cách nghệ thuật (lựa chọn đề tài tài, phương pháp, hình thức sáng tác).

- Nội dung chính: Văn bản đề giá trị của tập truyện và ký họa (Nguyễn Ái Quốc) được nhìn từ nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật, thẩm mỹ

- Giữa các phần trong văn bản có mối liên hệ chặt chẽ, logic, đi từ giới thiệu chung đến nội dung và nghệ thuật trong tập Truyện và ký họa.

Câu 2: Nhận xét về ngôn ngữ nghị luận trong văn bản (biện pháp tu từ, cách sử dựng từ ngữ, câu khẳng định, phủ định,...).

Trả lời:

Ngôn ngữ nghị luận trong văn bản được tác giả khéo léo chọn lọc, đảm bảo đúng quy chuẩn về hình thức của một văn bản nghị luận về tác phẩm văn học:

- Sử dụng ngôn ngữ có tính công khai về chính kiến, lập trường, quan điểm: nhìn vấn đề với tư cách chủ quan.

- Ngôn ngữ mang tính chặt chẽ, hàm súc: luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực.

- Sử dụng ngôn ngữ có tính truyền cảm

- Sử dụng nhiều câu khẳng định, phủ định. Câu khẳng định khẳng định truyền thống cách mạng của nhân dân ta, câu phủ định bác bỏ những luận điệu đểu cáng, xảo trá của thực dân Pháp.

Câu 3: Dựa vào văn bản trên, bạn hãy nêu một số nét khái quát về giá trị cơ bản của tập Truyện và kí.

Trả lời:

- Đề tài cách mạng

- Vạch trần thủ đoạn sau của bọn thực dân muốn ru ngủ và lung lạc người nước yêu chỉ ra bản chất phản bội của những kẻ hội cơ

- Bút pháp lãng mạn, phong phú biểu hiện

Câu 4: Nêu một số thao tác nghị luận trong văn bản và chỉ ra tác dụng của chúng đối với việc thể hiện giá trị nội dung, nghệ thuật của tập truyện, kí.

Trả lời:

- Chứng minh: Khi phác thảo họạ một chân dung đại và nên thơ như thế, với niềm tin ở tương lai huy hoàng, cũng như khi cấu một cặp tình nhân thủ thủ thỉ, một anh lính dõng tò mò, để lấy chăm tạo nên những cảnh tượng được đau nhất Khải Định, Va-ren cùng đồng bọn đáng sợ, là (tác giả) đều phải là cách ngày, ước mong cách mạng, tưởng tượng không về cách cách.

- Bình luận: Bên những câu chuyện dí dỏm hay chua chát thuốc sắc bén những thủ đoạn cai trị khi tàn bạo, khi quỷ dữ của thực dân, đây là một thứ ngôn ngữ cổ vũ và hướng dẫn đấu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại đậm đà hương đồng quê Việt.

- Phân tích: Sáu bài cô đơn mà phong phú, kể chuyện khắp năm châu. [...] Từ những tin thời sự nóng hổi như bố nhiệm tên Toàn quyến Va-ren, một cuộc đấu tranh thắng lợi của công nhân nước Bơ-ra-xin (Brazil), đến giấc mộng mơ dung lại toàn bộ lịch sử oai hùng chống lăng của dân tộc ta, đến cảnh thế giới thoát ách thực dân để quốc gia tưng ngưỡng hạnh phúc ở cửa thế ki XXI. Bên những câu chuyện đí đóm hay chua chát tiền tố sắc bên những thủ đoạn cai trị khi tân bạo, khi nhẹ nhõm của thực dân, đây là một thứ thầm lặng ngôn ngữ có vũ khí và hướng dẫn đầu tranh không riêng gì ở nước ta, nhưng lại dũng cảm đà hương đông quê đất Việt.

Câu 5: Tìm hiểu sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh và cho biết ý kiến của bạn về một trong hai nhận định sau: 

a. “Điểm nổi nét trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng.” (Phạm Huy Thông) 

b. “... xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đê tài: dấu tranh cách mạng.” (Phạm Huy Thông)

Trả lời:

a: "Điểm nổi bật trong phương pháp sáng tác của Hồ Chủ tịch là tính lãng mạn cách mạng."

- Từ những sáng tác và đóng góp trong sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh, có thể thấy ý kiến này là một cách nhìn sâu sắc về phong cách sáng tác của Bác, đã nêu bật sự kết hợp giữa tính lãng mạn và cách mạng trong tác phẩm của Người.

- Tính lãng mạn cách mạng giúp tác phẩm của Hồ Chí Minh trở nên đặc sắc, gợi lên tình cảm sâu lắng và ý chí cách mạng mạnh mẽ.

- Phản ánh, nhận thức một cách hiểu biết và đánh giá đúng về phong cách sáng tác, tầm quan trọng của Hồ Chí Minh trong văn học Việt Nam.

b: "... xét toàn bộ tác phẩm của Người, cũng lại có thể coi rằng, trước sau, Người suốt đời là tác giả của chỉ một đề tài: đấu tranh cách mạng."

- Cả cuộc đời của Bác Hồ luôn hướng về nhân dân, đau đáu về sự nghiệp giải phóng đất nước, đưa dân tộc thoát khỏi cảnh áp bức, lầm than. Bởi vậy, ngay cả trong chặng đường sáng tác văn học của Người, lòng yêu nước thiết tha và sự khao khát giải phóng dân tộc đã hình thành một tư tưởng và “đề tài” quan trọng trong các tác phẩm đầu tiên của Người: “Chống thực dân đế quốc, chống phong kiến tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”( Lời nói đầu - Le Paria số 01 ra ngày 1-4-1922). Đó không chỉ là đề tài các tác phẩm chính luận mà còn là nội dung của những tác phẩm văn học. Văn học ở Người chính là phương tiện làm sáng tỏ các luận đề chính trị nhằm mục đích thực hiện lý tưởng Cách mạng.

- Một số truyện, ký mà Người viết trong thời kỳ hoạt động trên đất Pháp những năm 20 của thế kỷ XX như:

+ Pari (1922- Nhân đạo)

+ Lời than vãn của bà Trưng trắc (1922- Nhân đạo)

+ Con người biết mùi hun khói (1922- Nhân đạo)

+ Vi hành (1923- Nhân đạo)

+ Đoàn kết giai cấp (1924- Người cùng khổ)

+ Con rùa (1925- Người cùng khổ)

+ Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925- Người cùng khổ)…

=> Tất cả đều thể hiện một cái nhìn sáng suốt, riêng biệt, trí tuệ nhằm phản ánh sáng tạo hiện thực và lịch sử. Sự kín đáo kết hợp tư duy chính trị với phong cách kể chuyện, cách ghi chép tự nhiên rất dí dỏm đánh vào kẻ thù của dân tộc như là một thứ vũ khí lợi hại góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang, to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.