Trước khi đọc
Câu hỏi SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 38): Trong cuộc sống, đôi khi có những điều rất khó nói, nhưng vẫn phải tìm cách nói ra để nhận được sự cảm thông, chia sẻ của một người nào đó. Đã bao giờ bạn gặp một tình huống như vậy chưa? Hãy chia sẻ với bạn hoặc lắng nghe chia sẻ của bạn về trải nghiệm đó.Trả lời:
- Đó là lần em bị điểm kém trong một bài thi rất quan trọng. Em biết bố mẹ đặt kì vọng rất lớn ở em nên không dám nói điều đó ra. Sau một thời gian bình tĩnh lại, em đã quyết định chia sẻ với bố mẹ về suy nghĩ của bản thân.
Đọc văn bản
Câu 1 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 39): Phân biệt lời của người kể chuyện và lời của nhân vật trong đoạn này.Trả lời:
- Lời người kể chuyện từ “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn……Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:”
- Lời nhân vật (xác định được thông qua dấu ngoặc kép để ngăn cách lời người kể. lời nói của nhân vật vật và dấu hai chấm để thông báo cho người đọc đoạn thoại của nhân vật ở đoạn sau): “Cơ trời dâu bể đa đoan ... Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?” và câu thơ “Lòng đương thổn thức đầy”
Câu 2 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 39): Cách mở đầu cho câu chuyện sắp nói với Thúy Vân của Kiều có gì khác thường?
Trả lời:
* Cách mở đầu cho câu chuyện sắp nói với Thúy Vân của Kiều khác thường ở chỗ:
– Hai từ “cậy em” của Thúy Kiều đã làm toát lên sự nhờ vả, gửi gắm, mong đợi, tin tưởng đến mức tuyệt đối của Thúy Kiều ở người em gái thân yêu. Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc. Trong lời mở đầu ấy chứa đựng sự dằn vặt, day dứt và mới khiến Kiều trở nên băn khoăn, ngập ngừng.
+ “Chịu lời”: Đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng “nhận lời” nó còn bao hàm sắc thái tự nguyện, có thể đồng ý hoặc không đồng ý, còn “chịu lời” thì bắt buộc phải chấp nhận, không thể từ chối bởi nó mang sắc thái nài nỉ, nài ép của người nhờ cậy.
– Kiều là chị, vai vế và tuổi tác lớn hơn Thúy Vân nhưng lại có hành động “lạy rồi sẽ thưa”.
→ Thông qua hành động “lạy rồi sẽ thưa”, thể hiện sự trang nghiêm, trịnh trọng, hạ mình của người bề dưới với người bề trên. Có thể thấy trước khi bắt đầu câu chuyện sắp nói với Thúy Vân, Thúy Kiều có thái độ cầu khẩn, nhờ cậy, e dè, thận trọng, cách nói tạo sự ràng buộc tế nhị. Kiều là chị mà lại lạy, thưa em mình.
+ Trong hoàn cảnh, đây là hành động bất thường nhưng lại hoàn toàn bình thường bởi hành động của Kiều là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân. Bởi vậy, việc Thúy Kiều nhún nhường, hạ mình van nài Thúy Vân là hoàn toàn hợp lí.
→ Hành động bất thường đặt trong mối quan hệ với các từ ngữ đặc biệt đã nhấn mạnh tình thế éo le của Thúy Kiều.Cách mở đầu cho câu chuyện sắp nói với Thúy Vân của Kiều đã giúp cho không khí của thời khắc “trao duyên” trở nên trang trọng hơn bao giờ hết. Cách dẫn dắt tinh tế và sâu sắc ấy ở Thúy Kiều đã trở thành điều khiến Vân không thể không chú ý, không để tâm đến những lời mà chị mình sắp nói ra.
Câu 3 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 40): Bạn hình dung thế nào về dáng vẻ, tâm trạng, giọng nói của Thúy Kiều trong đoạn từ dòng thơ 741 đến dòng 756 ở cuối văn bản.
Trả lời:
Trong đoạn từ dòng thơ 741 đến dòng 756 ở cuối văn bản, dáng vẻ, tâm trạng, giọng nói của Thúy Kiều hiện lên:
– Kiều giằng xé trong nội tâm, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng. Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng
+ Những hình ảnh “lò hương, hồn,…” là những hình ảnh cuộc sống cõi âm, đầy thần linh, ma mị → Người đọc cảm nhận được sự đau đớn trong nội tâm đến chết của Thúy Kiều.
+ Mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.
Sau khi đọc
Câu hỏi 1 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Việc “trao duyên” và cuộc trò chuyện giữa chị em Thúy Kiều - Thúy Vân được thuật lại theo ngôi kể nào? Những dấu hiệu nào góp phần giúp bạn nhận biết điều đó?
Trả lời:
– Việc “trao duyên” và cuộc trò chuyện giữa chị em Thúy Kiều – Thúy Vân được thuật lại theo ngôi kể thứ ba.
– Dấu hiệu nhận biết:
+ Người kể – tác giả không xưng “tôi” trong xuyên suốt nội dung tác phẩm.
+ Sự phân biệt giữa lời của người kể chuyện (bốn dòng thơ đầu, từ “rằng”, hai dòng thơ cuối) và lời của nhân vật (đánh dấu bằng dấu hai chấm, dấu gạch ngang và trích dẫn nguyên văn lời của các nhân vật) cho thấy câu chuyện do một người kể chuyện (không phải nhân vật) kể lại.
+ Khi giới thiệu về hội thoại giữa hai chị em Thúy Kiều – Thúy Vân, tác giả sử dụng “ân cần hỏi han, rằng” kết hợp cùng dấu “:” để thông báo cho người đọc.
+ Miêu tả được cụ thể, chi tiết nội tâm, hành động, biểu cảm, tâm trạng của Thúy Kiều – Thúy Vân.
+ Cách người kể chuyện gọi tên nhân vật (“Thuý Vân”) và cách thuật lại nguyên văn từ ngữ xưng gọi “chị”, “em” giữa hai chị em Thuý Kiều – Thuý Vân.
Câu hỏi 2 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Xác định số dòng thơ biểu đạt lời của mỗi nhân vật. Chỉ ra sự khác biệt về độ dài (tính bằng số dòng thơ) giữa lời thoại của hai nhân vật và giải thích sự khác biệt ấy.
Trả lời:
Nhân vật |
Thúy Vân |
Thúy Kiều |
Số dòng thơ biểu đạt lời thoại. |
4 dòng (thơ lục bát) |
38 dòng (thơ lục bát) |
Tỉ lệ trên toàn văn bản. |
4/48 |
38/48 |
Câu hỏi 3 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Lời thoại của Thuý Vân có vai trò như thế nào đối với sự tiến triển của câu chuyện?
Trả lời:
- Những lời thoại của Thúy Vân có vai trò làm tiền đề, là chiếc chìa khóa mở ra nội dung của câu chuyện, đóng vai trò quan trọng với sự tiến triển của câu chuyện. Lời “ân cần hỏi hạn” của Thuý Vân là một cách mang lại tình cảm chị em ấm áp đối với người chị đang rất mực cô đơn với gánh nặng tinh thần chưa biết chia sẻ cùng ai, Thuý Kiều được lời như cởi tấm lòng, mạnh bạo, tự tin để trao duyên, nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Lời thoại của Thúy Vân tuy có dung lượng ngắn nhưng lại là chi tiết vàng, ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sự tiến triển của toàn bộ câu chuyện trong đoạn trích “Trao Duyên”, vừa tạo một tình huống, cơ hội tự nhiên cho Thuý Kiều kể chuyện, bày tỏ nỗi lòng.
Câu hỏi 4 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Đọc kĩ lời thoại của Thúy Kiều và cho biết:
a. Lời thoại của Kiều trong văn bản là tự sự, biểu cảm hay kết hợp tự sự với biểu cảm?
b. Từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756, lời của Thúy Kiều hướng đến ai; là đối thoại, độc thoại hay độc thoại nội tâm?
Trả lời:
a. Lời thoại của Kiều trong văn bản có yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự.
b. Từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756 là lời độc thoại của Thúy Kiều hướng đến Kim Trọng. Lời của Thúy Kiều là những lời tự cảm thấy có lỗi rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy. Đồng thời là lời oán trách cho số phận vô lý nhưng cũng thể hiện sự bất lực của nàng.
=> Dạng lời thoại như vậy có tác dụng thể hiện tâm trạng phức tạp của Thuý Kiều trong cuộc “trao duyên”. Nguyễn Du đã hiểu rõ tâm trạng đó và miêu tả một cách tường tận, sinh động với khả năng thấu cảm của một nghệ sĩ thiên tài.
Câu hỏi 5 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của Thuý Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thuý Vân.
Trả lời:
Sự thay đổi trong tâm trạng của Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân:
– Trước khi trao kỉ vật:
+ Kiều một mình đắm chìm trong trạng thái bối rối, thao thức, dằn vặt cao độ. Buồn bã, phiền lòng vì hoàn cảnh tình yêu của mình và chàng Kim.
+ Khi Thúy Vân mở lời hỏi han, Thúy Kiều mở lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện.
– Trong khi trao kỉ vật:
+ Thuý Kiều đã phải vượt lên trên sự dằn vặt, lưu luyến, tiếc nuối khi dùng đến các từ ngữ chỉ kỷ vật như “của chung” (Duyên này thì giữ vật này của chung), “ngày xưa” (Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa)
+ Sự giằng xé trong tâm trạng của Thúy Kiều: Cây đàn hồ ngày nào đàn cho kim trọng và mảnh trầm hương ngày nào từng chứng kiến lời thề cũng để lại cho em như là của tin. Đối với chị chúng đã trở thành quá khứ xa xôi. Đến đây kiểu lại cảm thấy mình như người đã chết. Kiều đã mất hết niềm tin vào hiện tại.
+ Một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát
– Sau khi trao kỉ vật:
+ Trao xong kỉ vật, Kiểu càng nghĩ nhiều đến Kim Trọng và tình yêu. Tình cảm nàng dành cho Kim Trọng và mối tình đầu phải tính đếm bằng “muôn vàn”; ân tình nàng dành cho Kim Trọng cũng không sao kể xiết nên đã bái biệt bằng “trăm nghìn… lạy” …
+ Kiều dường như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của mình, vì nàng hi vọng em và chàng Kim tương lai sẽ được hạnh phúc. Hiện tại với nàng chỉ là con số không.
+ Kiều than thở và với Kim Trọng, thương xót cho Kim. “Thôi thôi” cũng là tiếng than tiếc và dằn vặt, là sự xác nhận cho sự phụ bạc của mình.
=> Có lẽ Thuý Kiều đã dành hết sự tỉnh táo cuối cùng để hoàn thành cái việc rất khó là thuyết phục Thuý Vân thay mình lấy Kim Trọng. Vì thế, sau khi trao duyên, đối diện với Kim Trọng và với lương tâm thì đã quá sức chịu đựng của nàng. Phải là người từng tích luỹ biết bao nhiêu “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trước những “bể dâu” và phải là người có “con mắt nhìn suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tác giả mới có thể miêu tả được nỗi lòng Thuý Kiều sâu sắc, thần tình như vậy.
Câu hỏi 6 SGK Ngữ văn 11 CTST - Soạn bài Trao duyên (trang 41): Xác định chủ đề của văn bản Trao duyên và cho biết, phần văn bản này có vai trò như thế nào trong việc góp phần thể hiện chủ đề của Truyện Kiều.
Trả lời:
– Chủ đề của văn bản Trao duyên: Lời nói, tâm trạng, cảm xúc của Thuý Kiều khi thuyết phục Thuý Vân thay mình lấy Kim Trọng.
+ Vai trò của văn bản Trao duyên có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề chung của Truyện Kiều. Tạo ra sự liên kết giữa các nhân vật trong câu chuyện và giúp độc giả hiểu rõ hơn về cảm xúc và tâm trạng của Thúy Kiều. Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được sự đau khổ trong bi kịch tình yêu của Kiều và nhận thức được giá trị của tình yêu và sự chung thủy trong cuộc sống.
+ Nếu xem chủ đề chung của Truyện Kiều là tiếng kêu đau thương về cuộc đời ba chìm bảy nổi của nàng Kiều thì Trao duyên là tiếng kêu trước nỗi đau đầu đời của nàng. Nỗi đau này kéo theo nhiều nỗi đau khác trong suốt mười lăm năm lưu lạc của Kiều.